Đồ đồng gắn với nhân dân ta trong suốt trường kỳ lịch sử, đây là kim loại quý được làm bản vị của các giá trị trao đổi từ xa xưa, được xem là kim loại thiêng để đúc tượng thờ và nhiều đồ tế khí, như trống đồng, chuông đồng. Bên cạnh đó, đồ đồng vẫn gắn chặt với cuộc sống sinh hoạt đời thường của mọi tầng lớp người dân trong xã hội phong kiến Việt Nam.

Trống đồng được xem như vị thần bản mệnh của dân tộc, được dân gian lập đền thờ, trong đó có đền Đồng Cổ (đền Trống Đồng) thuộc thôn Đan Nê, xã Yên Thọ, huyện Yên Định, Thanh Hóa. Cho đến khi đất nước độc lập, Vua Lý Thái Tông cho rước thần trống đồng vào ngày mồng 4 tháng 4 từ Đan Nê về Thăng Long lập đền Đồng Cổ ở Bưởi để hàng năm triều đình đến đền tổ chức ăn thề.
Nâng cao vị thần trống đồng lên tột đỉnh, nhà Lý cũng đồng thời phục hưng lại nghệ thuật đúc trống đồng; đưa kỹ thuật đúc lên đỉnh cao mới, truyền thuyết hóa về việc tổ chức đúc đồng và kỳ quan đồ đồng, để gây ấn tượng đậm và niềm tin không chỉ ở đương thời mà truyền thống mãi về sau. Về ý định này thực sự nhà Lý đã thành công, và nhờ đó mà đồ đồng đã có một sức sống thần kỳ ở cả chính sử và dã sử.

Sử sách còn ghi lại nhiều lần đúc đồng tạo ra những khí vật lớn và thiêng: "Năm 1031 đúc chuông chùa Long Trì nặng 10.000 cân đồng, năm 1035 đúc chuông chùa Trung Quang nặng 6.000 cân đồng, năm 1041 phát 7.500 vật cân đồng để đúc tượng Phật, hai vị Bồ tát và chuông lớn ở Viện Từ Thị Thiên Phúc, năm 1056 phát 12.000 cân đồng đúc chuông chùa Sùng Khánh Báo Thiên". Trong khí vật là chuông thì nổi lên yêu cầu về tiếng phải ngân vang, người thợ đúc đồng đã khám phá ra một công thức hợp kim là pha thêm kim loại quýđó là vàng hay bạc. Vì thế năm đầu của vương triều mình trị vì, nhà Lý đã phát 1680 lạng bạc để pha đúc chuông chùa Đại Giao, năm 1014 phát 310 lạng vàng để pha đúc chuông chùa Hưng Thiên và phát 800 lạng bạc để pha đúc chuông chùa Thắng Nghiêm... Việc khai thác mỏ đồng cũng được sử sách xác nhận, từ năm 1198 triều đình đã cho tổ chức khai phá mỏ đồng ở Quảng Châu.

Ký ức nhiều người còn ghi đậm truyền thuyết đã lịch sử hóa về ông Tổ đúc đồng gắn liền với bộ “tứ đại khí”. Vào thời Lý, sư Không Lộ mang một cái túi nhỏ sang Trung quốc quyên góp đồng, được Vua Trung Quốc cho vào kho, sư bèn làm phép thu tất cả đồng vào túi rồi tìm cách về nước. Về nước sư đúc một quả chuông lớn, khi đúc xong đánh thử tiếng vang truyền sang tận Trung Quốc khiến cho con trâu vàng ở trong kho tưởng mẹ gọi bèn lồng sang ta. Sợ tiếng chuông làm các nước mất hết vàng sẽ gây thù oán với ta, sư bèn vứt chuông xuống hồ nước, trâu vàng cũng xuống hồ theo. Số đồng còn lại sư cho đúc bốn khí vật lớn là chuông Quy Điền, Tháp Báo Thiên, Tượng Phật chùa Quỳnh Lâm và vạc chùa Phổ Minh. Cả bốn khí vật này đều đã “mất” từ lâu trong đó hai khí vật ở Thăng long (Chuông Quy Điền và tháp Báo Thiên) được gắn cho quân Minh phá năm 1426 để lấy đồng đúc vũ khí. Những truyền thuyết kết hợp với sử sách và văn bia còn xác nhận:

- Chuông Quy Điền: chùa Một Cột xây năm 1049 đến năm 1101 nhân sửa chùa có đúc một quả chuông lớn. Chuông đúc xong nặng không thể treo lên được, bèn để ở ruộng nước có nhiều rùa vào làm tổ, nhân đó thành tên Chuông Quy Điền.

- Tháp Báo Thiên: chùa Báo Thiên xây bên cạnh hồ Lục Thủy (hồ Hoàn Kiếm ngày nay) vào năm 1057, năm sau tại sân chùa xây cây tháp Đại Thắng Tư Thiên cao vài trượng, gồm 12 tầng dưới bằng đá, các tầng trên bằng đồng, trên đỉnh tháp có tượng tiên nữ dâng mâm ngọc hứng nước ngọt. Cho đến thời Tây Sơ còn thấy nền tháp với một số tượng đá đẹp.

- Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: chùa Quỳnh Lâm, ở Đông Triều, có tượng Phật di Lặc cao 6 trượng đặt trong tòa điện cao 7 trượng, đứng xa mười dặm còn trông thấy rõ.

- Vạc Phổ Minh: chùa Phổ Minh ở Nam Định có chiếc vạc mà miệng của nó hai người có thể đuổi nhau trên đó được. Có tài liệu nói vạc sâu 4 thước, rộng hơn 10 thước và nặng 6150 cân.

Thời Trần, sử sách ít nói đến đồ đồng, nhưng việc sử dụng rộng rãi trống đồng trong các nghi lễ long trọng và tác dụng lớn lao của trống đồng đã được xác nhận chắc chắn. Đời Vua Trần Nhân Tông (1279-1293) trong cuộc đón sứ giả nhà Nguyên đã cho đánh trống đồng giữa những hàng lính cầm gươm giáo sáng lòe, khiến sứ giả Trần Cương Trung phải run sợ thú nhận:

“Kim qua ảnh lý đan tâm khổ

Đồng cổ thanh trung bạch phát sinh”

Có nghĩa:

“Thấy gươm sắt lóe sáng lòng đau khổ

Nghe tiếng trống đồng sợ bạc cả đầu”

Tiếng trống đồng đón sứ giả nhà Nguyên thế nào không rõ, nhưng đền thờ thần trống đồng ở Đan Nê còn có biểu ghi rõ: “Treo lên đánh thấy tiếng giống tiếng trống mà mạnh hơn, giống tiếng chuông mà ngân, giống tiếng khánh mà êm”.

Và chắc chắn một số hiện vật bằng đồng của thời Trần đã được phát hiện. Đó là quả ấn đồng Môn Hạ Sảnh Ấn triều Trần, là quả ấn có niên đại cổ nhất, có niên đại rõ ràng nhất ở nước ta. Hiện vật này đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia. Đôi vòng để mắc cán võng và đôi bàn đạp yên ngựa được tìm thấy trong mộ Vua Trần ở Yên Sinh (Đông Triều, Quảng Ninh), được đúc khéo léo, trang trí tinh tế với đôi rồng điển hình của nghệ thuật thời Trần. Và đặc biệt là ba quả chuông ở những ngôi chùa thuộc vùng biên cương của đất nước:

- Chuông chùa Bình Lâm ở Hà Giang đúc năm Ất Mùi niên hiệu Hưng Long tức năm 1296 được phát hiện năm 1987.

- Chuông chùa Vân Bản ở Hải Phòng, được vớt ở vùng Biển Đồ Sơn năm 1958.

- Chuông chùa Rối ở Hà Tĩnh phát hiện năm 1990.

Hai quả chuông sau tuy không ghi niên đại, nhưng với kiểu dáng hoa văn và một số quan tước cùng tên người chắc chắn thuộc cuối thời Trần.

Những quả chuông này, dù tìm thấy ở dưới nước biển (chuông chùa Vân Bản hiện được Thủ tướng chính phủ phê duyệt là Bảo vật Quốc gia) hay trong lòng đất (chuông chùa Rối, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh), đều còn khá nguyên vẹn, chứng tỏ một kỹ thuật luyện kim cao, tất cả đều thuộc loại chuông lớn với kiểu dáng ổn định khá giống nhau.

Có thể lấy chuông chùa Vân Bản để xem xét: chuông cao 1,27m, đường kính miệng 0,80m, có dáng phát triển từ chuông Thanh Mai. Với sự sáng tạo là miệng loe hình cánh sen và có 6 núm gõ, con rồng ở quai treo vẫn còn mào lửa những hoa văn dạng chữ S (vốn không thể thiếu ở con rồng triều Lý) thì nay chỉ còn một bên má. Minh văn khắc trên chuông là nguồn sử liệu quý về xã hội đương thời.

Thời Lê Sơ hiện vật đồng còn lại ít, cơ bản là những đồng tiền đã có từ thời Đinh mà sau đấy tất cả các Nhà nước quân chủ độc lập của nước ta đều đúc và lưu hành rông rãi.

Cùng với những đồng tiền lưu hành rộng rãi, đó là ba quả ấn quý chỉ sau quả ấn đồng Môn Hạ Sảnh đó là:

Quả ấn “Thuần tượng hậu vệ bào lâm hậu sở ấn” , được phát hiện tại Hào Nam, Đống Đa, Hà Nội năm 1974. Là quả ấn của chức chỉ huy đơn vị hậu sở Bào Lâm thuộc Hậu vệ Thuần Tượng thuộc Cẩm Y Vệ, được làm năm Hồng Thuận thứ 24 Triều Lê Thánh Tông (1493).

Quả ấn “Phụng mệnh tuần phủ đô tướng quân ân”, được phát hiện tại nhà ông Phi Tân ở thôn Hoàng Phổ, huyện Quảng Ninh, Tỉnh Quảng Bình năm 1982. Là quả ấn dùng cho các quan khâm sai, khâm phái, một chức tạm thời đi thi hành công vụ. Quả ấn được đúc ngày 16 tháng 11 năm hồng Thuận thứ 6 (1514) đời vua Lê Tương Dực thời Lê Sơ.

Quả ấn “Đề Thống tướng quân chi ấn”, được phát hiện tại xã Thiện Thuật huyện Bình Gia, Lạng Sơn. Là quả ấn dùng cho các vị quan võ hay những nơi xung yếu được phong hàm lựa chọn giữ chức Tướng quân hoặc Đại Tướng quân để chỉ huy quân đội chiến đấu. An được đúc vào ngày 16 tháng 11 năm Hồng Thuận thứ 5, đời Vua Lê tương Dực (1515).

Thời Mạc, có hai quả chuông đồng lớn (cao 1,55m và 1,75m) ở chùa Viên Minh (tức chùa Đà Quận) thuộc tỉnh Cao Bằng, đúc năm Tân Hợi niên hiệu Kiền Thống 19 tức năm 1611 dáng cơ bản gần chuông thời Trần, song kỹ thuật đúc do có thêm nhiều sắt trong hợp kim nên có mầu gần với gang và mặt bị sần oxy hóa.

Sang thời Lê Trung Hưng, dù năm 1776 khi chiếm được Đàng Trong, chúa Trịnh đã cho phá súng đồng nòng rộng không dùng được, những đồ đồng nặng không mang đi được những đỉnh vạc to lớn nặng 700 - 800 cân trở xuống lấy được của chúa Nguyễn để đúc tiền. Ở Đàng Ngoài, sau lần thu vét đồng năm 1740 của Vua Lê Cảnh Hưng năm 1786, Vua Lê Chiêu Thống theo lời tâu của Nguyễn Hữu Chỉnh lại cho thu vét chuông đồng, tượng đồng ở các chùa đền đều lấy đồng đúc tiền. Với những hành động trên chắc chắn rất nhiều hiện vật quý bằng đồng đã bị thu phá để đúc thành tiền, thế nhưng chẳng những một số đồ đồng của thời Mạc trở về trước ngày nay vẫn còn giữ khá nhiều đồ đồng thời Lê Trung Hưng (kể cả ở Đàng Trong), từ những di vật nhỏ như đồng tiền, đến những di vật lớn và có trọng lượng lớn như tượng thờ, chuông chùa, vạc, đỉnh…

Nổi trội trong nghệ thuật đúc đồng thời Lê là tượng Trấn Vũ ở đền Quan Thánh (Hà Nội) bằng đồng được đúc năm Vĩnh Trị 2 (1677) cao khoảng 9 thước (3,72m) nặng 6.600 cân (4.000Kg) thể hiện một vị thần là đạo sĩ ngồi xõa tóc, chân để trần, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm, thân gươm có rắn cuốn vòng lên lưng rùa. Tượng Trấn Vũ chẳng những là một tác phẩm độc đáo, mà về kỹ thuật đúc đồng đã đánh dấu một đỉnh cao. Chính vì thế mà tác giả của pho tượng này là nghệ nhân Trùm Trọng đã được tạc tượng đá cao bằng người thật để thờ trong khám ở sát hồi tường bên trái của tòa điện chính. Đó là sự tôn vinh cao nhất đối với nghệ nhân.

Hay phải kể đến chiếc trống đồng Cảnh Thịnh TK 18, được phát hiện tại Chùa Lành, Gia Lâm, Hà Nội. Chiếc trống có kiểu dáng và trang trí đặc sắc. Trống đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt công nhận là Bảo vật Quốc gia.

Đàng Trong là vùng đất mới, các chúa Nguyễn khi vào trấn thủ đã tìm mọi cách thu hút dân ngoài Bắc theo vào. Trong đó có những thợ đúc tài giỏi và trong mưu đồ cát cứ đã xây dựng một số công trình để khẳng định quyền lực của mình. Dưới góc độ nghề đúc đồng, các chúa Nguyễn ở thế kỷ 17-18 ở để lại những vạc, chuông rất đặc sắc hiện vẫn còn lưu giữ tại Huế. Hiện còn giữ lại 10 chiếc vạc lớn đều được đúc ở thế kỷ 17, trong đó nổi lên hai chiếc vạc ở sân trước nhà Tả Vu và Hữu Vu trong Đại Nội, đúc vào năm 1660 và năm 1662 cao 1,05 m cả quai cao 1,30m, miệng rộng: 2,22m. Nặng gần sấp xỉ cái lớn nhất: 2582 cân. Có dáng thẳng đứng, miệng hơi loe, thành ngoài được chia ra các dải ngang trong đó lại chia các ô, mỗi ô là một hình trang trí hoa là nhất là chim thú hầu hết đều chuyển động ngược chiều kim đồng hồ. Chuông đồng ở Đàng Trong không nhiều như Đàng ngoài, song lại có quả chuông to nhất và đặc sắc nhất ở chùa Thiên Mụ được gọi là Đại Hồng Chung đúc năm 1710, cao 2,47m, Đkm: 1,42m Đk thân: 3,61m, nặng 3,285cân 8 lạng (2.052Kg). với nhiều trang trí đẹp như rồng mây, tinh tú và bát quái được đúc tinh xảo, với tiếng vang ngân, chứng tỏ một kỹ thuật luyện kim đồng thau đạt tới tột đỉnh. Những vạc và chuông lớn này đã vượt lên trên lệnh phá năm 1740 và năm 1766 của nhà Lê - Trịnh.

Do lệnh thu vét đồng thời Cảnh Hưng và Chiêu Thống, nhiều chùa ở ngoài Bắc đã bị mất chuông, khi nhà Tây Sơn lên đã cố gắng khắc phục, nhất là trong thời Cảnh Thịnh, khắp nơi có tổ chức đúc lại chuông chùa, quán. Ngày nay tuy chưa tổ chức điều tra tổng thể, theo hồ sơ lý lịch của gần 100 quả chuông thời Tây Sơn phần lớn cao trên 1,20m, một số quả cao tới 1,50m có quả cao 1,74m như chuông chùa Thầy (Hà Nội), được tạo dáng đẹp với tỷ lệ chiều cao thường gấp đôi chiều rộng, bồ lao treo là hai hoặc một rồng hoàn chỉnh. Những quả chuông này chẳng những quý mà còn là vật thiêng thông truyền sự giác ngộ như bài văn chuông chùa Bộc (Hà Nội) đúc năm 1795.

Vào thời Nguyễn, mặc dù năm 1813 Vua Gia Long cấm nhân dân Bắc Kỳ xây dựng quán cùng với việc đúc tượng và chuông, nhưng nhiều nơi nhân dân vẫn đúc chuông, trong đó tiêu biểu là quả chuông chùa Bút Tháp (Bác Ninh) đúc năm 1815, cao 1,52m; Đkm: 0,71m. Các đời Vua sau đó cũng đúc chuông lớn như chuông chùa làng Chèm (Hà Nội) đúc năm 1878 cao 1,41 m, đường kính miệng: 0,68m. Những thành tựu đúc đồng trong thời Nguyễn nổi trội vẫn là ở Huế, tiêu biểu là bộ Cửu Đỉnh và Cửu vị thần công.

Cửu vị thần công là chín khẩu đại bác lớn được đặt tên là Xuân - Hạ - Thu - Đông và Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ, đều được triều đình Huế phong là “Thần uy vô định thượng tướng công”. Từng khẩu pháo đều dài 5,10m và nặng trung bình tới 17.500 cân, thân súng được chạm trang trí hoa lá tỷ mỉ, còn khắc rõ danh hiệu, vị thứ, trọng lượng, cách sử dụng và niên đại Bnh Tý năm Gia Long 15 tức 1816. Bộ Cửu vị thần công này là những khí vật bằng đồng khổng lồ hiện nay vẫn còn. Nhưng thể hiện sự đúc hoàn hảo hơn cả về kỹ thuật và nghệ thuật, được mọi người quan tâm đến nhiều hơn cả là bộ Cửu đỉnh đó là chín đỉnh đặt ở sân Thế Miếu mang tên Cao - Nhân - Chương - Anh – Nghị - Thuần - Tuyên – Dũ - Huyền muốn biểu hiện một vòng lịch đại đầy đủ: (Cao đỉnh tượng trưng cho sự vĩ đại; Nhân đỉnh tượng trưng cho đức lớn; Chương đỉnh tượng trưng cho ánh sáng; Anh đỉnh tượng trưng cho sự hiển đạt; Nghị đỉnh tượng trưng cho sự cương nghị; Thuần đỉnh: tượng trưng cho sựu thuần khiết; Tuyên đỉnh tượng trưng cho sự tinh thông; Dũ đỉnh tượng trưng cho sự phương phi; Huyền đỉnh tượng trưng cho sự huyền kỳ).

Tất cả đều ghi rõ Ất mùi niên hiệu Minh Mạng 16 tức năm 1835. Dáng chung của các đỉnh như một lư hương tròn có ba chân cao dược tạo tác bề thế như những tác phẩm điêu khắc bằng đồng hoành tráng. Quanh thân đỉnh nổi một ô tên đỉnh và 17 mảng trang trí các hình chạm nổi về cảnh trí đất nước, tinh tú hiện tượng thiên nhiên và các sinh vật. Đã nhiều người bàn đến kỹ thuật đúc đỉnh với những hình chạm nổi xu hướng chung là được đúc liền khuôn và như thế việc làm khuôn đúc phức tạp đã được giải quyết mỹ mãn.

Đồ đồng Phong kiến Việt Nam từ thế kỷ 11 đến cuối thế kỷ thứ 19 sang đầu thế kỷ 20, tồn tại và phát triển trong suốt thời kỳ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nó còn ở lại với chúng ta đến ngày nay không nhiều, song thật đáng khâm phục và tự hào về trình độ luyện kim, đúc đồng của ông cha ta.